Hiển thị các bài đăng có nhãn Knowledge. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Knowledge. Hiển thị tất cả bài đăng

Tiên tri Vanga đã dự đoán thảm họa Nhật Bản

Người đăng: buonkhongem on Thứ Ba, 22 tháng 3, 2011

Nhà tiên tri Vanga đã đoán được chính xác thời gian diễn ra thảm họa động đất và cơn mưa phóng xạ. Còn ngay từ thế kỷ 16, nhà tiên tri Nostradamus đã viết: “Trái Đất rung chuyển rất mạnh. Nước đột ngột dâng cao như trận đại hồng thủy”.

http://a8.vietbao.vn/images/vn888/hot/201007/22013297-1-baba-vanga-psychic.jpeg

Bà Vanga (1911 1996), một phụ nữ mù người Bulgary, nổi tiếng lẫy lừng nhờ rất nhiều tiên đoán chính xác, trong đó có những tiên đoán “động trời” liên quan Chiến tranh Thế giới thứ hai, liên quan ngày chết của Stalin, về việc Liên Xô sụp đổ, về vụ con tàu Kursk bị đắm…

Giờ đây, chắc hẳn bạn sẽ kinh hoàng khi biết rằng trong những lời tiên đoán của bà cho năm 2011 có một câu như sau: “Do những trận mưa phóng xạ nên ở bắc bán cầu cả động vật lẫn thực vật đều sẽ bị tuyệt diệt”.

Câu tiên đoán này hẳn muốn nói đến thảm hoạ ở các nhà máy điện nguyên tử của Nhật. Đám mây phóng xạ tạo thành sau những vụ nổ tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima lúc đầu di chuyển về phía đông ra Thái Bình dương nhưng rồi ngoặt về phía tây, phía lục địa Á - Âu tức là về phía Bắc Bán cầu.

Tien tri Vanga da du doan tham hoa Nhat Ban

Bà Vanga cũng đã tiên đoán vào năm 2010 sẽ bùng nổ cuộc Chiến tranh Thế giới thứ ba và cuộc chiến tranh này sẽ kết thúc vào năm 2014.

“Do những trận mưa phóng xạ nên ở Bắc Bán cầu cả động vật lẫn thực vật đều sẽ bị tuyệt diệt vào tháng 3- 2011. “ - Lời tiên tri Vanga.

Trong bối cảnh đó, hiện tượng hủy diệt cả động vật lẫn thực vật mà bà nói đến chắc chắn là do kết quả các hành động chiến sự chứ không phải do nhà máy điện nguyên tử bị nổ. Nhưng rõ ràng lời tiên đoán của bà Vanga và hiện thực hiện nay ở Nhật trùng hợp một cách thần bí cả về thời gian (năm 2011) lẫn sự việc (mưa phóng xạ).

Cũng có thể tìm thấy ở nhà tiên tri vĩ đại Nostradamus (1503 – 1566) người Pháp đôi điều gì đấy về thảm hoạ ở Nhật. Chẳng hạn như: “Trái Đất rung chuyển rất mạnh” (đoạn 1 quyển 46) hoặc: “Nước đột ngột dâng cao như trận đại hồng thuỷ” (đoạn 8 quyển 16). Tuy nhiên, người ta không thể tìm thấy điều gì cụ thể hơn ở nhà tiên tri này.

Nữ chiêm tinh Ludmila Muravieva, người Nga khi tiên đoán cho tháng 3 năm 2011 có nói: “Sẽ xẩy ra một sự cố gì đấy hoàn toàn mới, đột ngột, và sự cố đó có thể làm đảo lộn cả thế giới. Những xáo động mạnh và bất ngờ sẽ buộc nhiều người phải nhìn cuộc sống riêng tư của mình theo cách khác bất kể chuyện gì đang diễn ra chung quanh”.

Giờ đây có thể mạnh dạn liên hệ những từ ngữ chung chung “đột ngột”, “bất ngờ” và “làm đảo lộn cả thế giới” với những sự cố hiện nay ở đất nước Mặt Trời mọc. Còn từ “xáo động” có thể coi như ngụ ý những cơn địa chấn và dư chấn ngầm ở Nhật.

(Theo Tiền phong/KP.ru)

More about

Nhìn lại 10 năm phát triển của Blogger

Người đăng: buonkhongem on Thứ Tư, 10 tháng 6, 2009

[FD's BlOg] - Blogger là một trong những nhà cung cấp dịch vụ blog lớn nhất hiện nay trên thế giới, với nhiều tính năng như : không giới hạn bandwidth, có nhiều template cho bạn lựa chọn, cho phép thay đổi code của template, cho phép upload ảnh... Tuy nhiên Blogger không phải là "con ruột" của Google. Ra đời năm 1999 nhưng mãi đến năm 2003 blogger mới thuộc về Google.

Blogger được tạo bởi Pyra Labs và chính thức ra mắt ngày 23/8/1999. Nó là một trong những nhà cung cấp blog sớm nhất, và cho đến nay thì quá phổ biến.

Và đây là hình ảnh của Blogger qua các năm từ 1999 - 2009

Blogger.com in 1999
- Ban đầu giao diện của blogger nhìn rất sơ xài, và cũng chưa có logo cho mình.


Blogger.com in 2000
- Sang năm 2000 thì giao diện đã cải thiện hơn chút, và từ đây logo chính thức của blogger được ra đời.


- Sau đó Blogger đã được Google mua lại vào năm 2003, và thay đổi lại thiết kết, giao diện trong năm 2004, và từ đó giao diện này được dùng đến cho đến nay. Ngoài việc thay đổi giao diện, google cũng đã thêm nhiều tiện ích cho blogger như : cho phép upload ảnh (thông qua picasa), cho phép kéo, thả các widget (di chuyển), và nhiều tiện ích khác.

Blogger.com from 2004


Now (2009)
- Đến nay thì giao diện của blogger có khác đôi chút, nhưng cũng không thay đổi gì nhiều so với năm 2004.

Tổng hợp từ BloggerTrick


More about

Một số khái niệm về Website và Internet

Người đăng: buonkhongem on Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2009

[FD's BlOg] - Cùng tìm hiểu về những khái nệm về mạng.
1. Khái niệm về Website:
Những khái niệm như cửa hàng, siêu thị, thư viện, nhà máy, ... đã quá quen thuộc với chúng ta. Nhưng đó chỉ là thế giới vật chất, còn trong thế giới của thông tin với hệ thống giao thông mạng Internet, những khái niệm đó được tổng hợp chung vào trong từ "WEBSITE". Chúng ta sẽ có WEBSITE cửa hàng, WEBSITE siêu thị, WEBSITE thư viện, WEBSITE nhà máy, WEBSITE cá nhân, ... và bạn có thể tiếp tục danh sách này thay chúng tôi.

2- Địa chỉ của một WEBSITE hay vị trí của cửa hàng trên internet - còn gọi là tên miền (Domain name):
Khi so sánh internet với mội trường kinh doanh truyền thống, chúng ta có thể tự đặt câu hỏi, thế trên internet có những khái niệm như vị trí tốt xấu không, có nhà trung tâm, nhà ngoại ô không. Có! và đó là điều đáng để suy nghĩ, không nhanh chân chúng ta sẽ không còn chỗ, hoặc là phải mua lại với giá rất đắt. Đó là gì vậy? Chính là địa chỉ của WEBSITE. Ví dụ như www.dtcvn.net hay www.admin.com.vn. Tên của WEBSITE không được trùng nhau, trong khi đó tên viết tắt của các công ty thì trùng nhau quá nhiều, và ai cũng muốn tạo cho mình một địa chỉ thật dễ nhớ. Kết quả là người chậm chân mất quyền ưu tiên, không mua được địa chỉ đó.
Một địa chỉ dễ nhớ giữ vai trò rất quan trọng trong việc giới thiệu một WEBSITE. Địa chỉ nhớ thông thường phải ngắn gọn hoặc có ý nghĩa. Nếu doanh nghiệp đã có thương hiệu khá nổi tiếng thì nên dùng ngay thương hiệu của mình. Vậy điều đầu tiên cần làm là kiểm tra tên công ty mình còn không, nếu may mắn chưa bị ai chiếm chỗ hãy đăng ký ngay, đừng chậm trễ.


3- Nơi lưu trữ WEBSITE (Hosting):
Công trình thiết kế web đã hoàn tất, bạn cần đưa nó lên mạng, bạn cần một nơi để cất giữ thông tin của WEBSITE để khi người xem gõ đúng địa chỉ WEBSITE lập tức trang web của bạn được tìm thấy thì được gọi là Hosting. Chúng tôi ví von nơi lưu trữ WEBSITE trên internet (Host) là nhà, còn địa chỉ WEBSITE (domain name) chính là địa chỉ nhà. Hai khái niệmHai khái niệm này luôn đi đôi với nhau thì người ta mới tìm thấy nội dung WEBSITE của bạn trên internet, ví như có nhà mà không có địa chỉ thì cũng không ai tìm được, có địa chỉ mà không có nhà thì không biết tìm ai...

4- Giao diện WEBSITE:

Chính là cái mà chúng ta thấy nó ở trên trang web, là khung được trang trí cho trang web. Được thiết kế bởi những designer với các khung, bảng, mầu và chữ, ... Các giao diện website thường có kích thước bề ngang chuẩn là 800 pixel hoặc 1024 pixel, nhưng cũng có một số website không theo chuẩn này mà thiết kế tự động giãn theo kích thước màn hình. Để có 1 giao diện website đẹp, cần rất nhiều yếu tố cấu thành, trong đó ý tưởng của người chủ website là quan trọng nhất.

5- WEBSITE tĩnh và WEBSITE động:
- WEBSITE tĩnh: là dạng WEBSITE mà nội dung của nó là cố định, để thay đổi cần có kiến thức về web, người sử dụng không thể sửa chữa trực tiếp trên inetrnet.

- WEBSITE động: là dạng WEBSITE mà sau khi thiết kế, người sử dụng có thể thêm - xóa - sửa nội dung thông qua một phần mềm quản lý mà không cần có nhiều kiến thức về thiết kế web.

6- Khái niệm thương mại điện tử:
Nếu một trong những công đoạn của giao dịch thương mại như tìm kiếm đối tác, thỏa thuận hợp đồng, trao đổi hàng hóa và dịch vụ, thanh toán, được thực hiện bằng công cụ điện tử thì giao dịch thương mại đó có thể được coi là thương mại điện tử. Bạn gửi fax cho các khách hàng tiềm năng để chào hàng, bạn thỏa thuận chi tiết hợp đồng qua hệ thống ngân hàng, tất cả những việc đó đều thuộc phạm trù của thương mại điện tử với ý nghĩa tổng quát của nó.

Chỉ sau internet ra đời và được phổ biến rộng rãi thì thương mại điện tử mới thực sự có bước nhảy vọt. Khái niệm thương mại điện tử hiện nay hàm ý thương mại internet nhiều hơn. Theo thống kê của IDC và OECD, với internet, thương mại điện tử đã đạt mức tăng trưởng từ 50 tỷ USD vào năm 1998, lên đến 111 tỷ năm 1999 và dự tính sẽ đạt mức 1000 tỷ USD vào những năm 2003-2005. Qua hệ thống internet với hàng trăm triệu máy tính trên khắp các châu lục, các doanh nhân ngày nay đã thật sự có một công cụ đặc biệt hữu hiệu để giao dịch.

7- Tìm kiếm và Quảng bá WEBSITE trên Internet (Search Engine):
Ta hãy xem internet có thể giúp các doanh nghiệp điều gì.

Tìm là thấy ngay
Ngày nay, chúng ta có thể tìm đối tác một cách dễ dàng hơn thông qua các công cụ tìm kiếm trên internet, đặc biệt là đối tác tại các nước phát triển, nơi có tỷ lệ phổ cập internet rất cao. Bạn chỉ cần vào một trong những công cụ tìm kiếm như www.google.com hoặc www.yahoo.com, gõ vào từ khóa liên quan đến vấn đề cần tìm, chỉ vài giây sau bạn đã có một danh sách dài ngoằng. Sau vài giờ phân loại, sàng lọc thông tin, bạn đã có thể có trong tay một danh sách các đối tác tiềm năng. So với cách làm truyền thống qua danh bạ điện thoại, catalog thì việc tìm kiếm trên internet nhanh chóng và hiệu quả hơn nhiều.

Quảng bá trên internet
Trên thế giới có hàng triệu triệu WEBSITE đủ mọi lĩnh vực, tìm sao để thấy ngay WEBSITE của bạn ngay trang đầu tiên tìm kiếm? Chúng tôi tự hào vì đã làm hài lòng khách hàng của mình trong dịch vụ này. Và nhờ đó mà họ có rất nhiều đối tác trong kinh doanh thông qua WEBSITE của họ.


Nguồn dtc.vnn.vn
More about

Nostradamus - Thế chiến thứ 3 khởi sự từ Trung Đông

Người đăng: buonkhongem on Thứ Tư, 8 tháng 4, 2009

[FD's BlOg] - Tìm hiểu những điều mà nhà tiên tri NostrAdamus đã phán liên quan đến các biến cố xảy ra trên thế giới, từ thế kỷ thứ 16 đến nay, người ta thấy rằng điều làm nostradamus bi quan hơn hết là viễn tượng một cuộc chiến tranh thế giới lần thứ ba sẽ đưa nhân loại đến chỗ hủy diệt mà nguyên nhân trực tiếp là sự xuất hiện của "kẻ chống chúa thứ ba". Thật vậy, những lời tiên tri của nostradamus được mọi người chú ý nhất là những tiên tri liên quan đến sự xuất hiện của "kẻ chống chúa".

Đề tài chính yếu của những tiên báo của ông xoay quanh "ba người của sự ác". Sự xuất hiện của mỗi người này là dấu ấn của một giai đoạn mà thế giới tiến dần đến sự tàn phá ngày càng lớn hơn hoặc một sự thay đổi lớn lao về mặt tâm thức.

Đọc giả cần nhớ rằng Nostradamus sống và viết ở thế kỷ 16, thời đại thấm nhuần những tin tưởng tôn giáo sâu đậm. Ngay cả từ ngữ "kẻ chống chúa" đã chỉ cho ta thấy thái độ tôn giáo và tín điều của cả một thời đại khi mà giáo hội có quyền hành và làm người ta sợ hãi hơn bất kỳ một hoàng đế hay một chính quyền nào.

Ngay đến thập niên 90 và kéo dài tới bây giờ, nhất là sau biến cố kinh hoàng xảy ra tại New York hôm 11 tháng 9-2001 vừa qua, nhan đề của "kẻ chống chúa" vẫn làm cho người ta rúng động và nếu ta nhìn ngược lại hai người đầu của bộ ba kẻ chống chúa nổi tiếng của nostradamus, ta thấy rõ ràng quả thật họ đã đóng vai trò quan trọng trong việc đưa thế giới đến những tai họa ngày càng trầm trọng hơn.

Quan những điều mà nostradamus đã phán, chúng ta đã thấy người chống chúa đầu tiên Napoleon bonaparte, với tham vọng muốn làm chủ Âu Châu của ông làm 2 triệu người thiệt mạng kèm với 14 năm chiến tranh. Kẻ chống chúa thứ hai là Aldolf Hitler, người thật xứng đáng với danh hiệu mà nhà tiên tri đã gán cho ông và là một trong những người mang nhiều tàn phá nhất trên tầm cỡ thế giới. Hitler đã gây ra một trận chiến gần như toàn cầu với 50 triệu người chết, 6 năm chiến tranh và phải mất hằng bao nhiêu năm sau để phục hồi lại. Người ta đã ước lượng là tổn phí cho cuộc thế chiến lần thứ hai vào khoảng 1 ngàn tỷ đô la mỹ tính theo giá trị đồng đô la vào năm 1950.

Nếu kẻ chống chúa thứ hai đã gây ra những thiệt hại kinh khủng như trên, sự nghiệp của kẻ chống chúa thứ 3 sẽ như thế nào? người này tên họ là gì và chừng nào mới chính thức xuất đầu lộ diện? mặc dù Nostradamus đã mô tả con người kỳ quái này trong nhiều khổ thơ của ông, nhưng cho tới những năm gần đây, người ta vẫn tiếp tục nhức đầu, chưa thật sự suy đoán được nhân vật này là ai?
Theo Vietlyso
More about

Những khái niệm căn bản về mạng máy tính

Người đăng: buonkhongem on Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2009

[FD's BlOg] - Bài viết này mình xin giới thiệu một số kiến thức về mạng máy tính.





I. Khái niệm cơ bản:

1. Mạng máy tính: Là 2 hay nhiều máy tính được kết nối với nhau.
2. Máy chủ - Máy khách:

Trong mạng máy tính, máy chủ (hay còn gọi là server) là một máy tính được sử dụng để các máy tính khác truy cập. Các máy tính truy cập vào 1 máy chủ được gọi là máy khách.

Như vậy, 1 máy tính trong mạng có thể vừa là 1 máy chủ (khi có máy khác truy cập đến nó), vừa là một máy khách (nếu nó truy cập đến một máy tính khác). Vì vậy đừng nên nghĩ rằng máy chủ là 1 cái gì đó cao siêu.

3. Giao thức mạng:

Các máy tính trên mạng "nói chuyện" với nhau thông qua một ngôn ngữ đặc biệt gọi là các giao thức mạng. Có rất nhiều giao thức khác nhau, mỗi giao thức có 1 nhiệm vụ riêng. Ở đây tôi tạm chia ra làm 2 nhóm giao thức:
- Giao thức truyền dữ liệu, chuyên dùng để vận chuyển dữ liệu giữa 2 máy tính.
- Giao thức xử lý dữ liệu, có nhiệm vụ xử lý dữ liệu nhận được từ giao thức truyền dữ liệu

Túm lại: Không nên phát hoảng khi nghe thấy 2 từ giao thức. Chẳng qua nó chỉ là 1 dạng ngôn ngữ để trao đổi với nhau mà thôi. Và bạn cứ yên chí rằng nếu thích, bạn có thể tự định nghĩa ra một cái giao thức nào đó. Chẳng hạn như các chương trình chat của Yahoo, hay các chương trình remote trojan… Chúng tự đẻ ra các giao thức riêng dựa trên nền giao thức TCP/IP đấy.

4. Chùm giao thức TCP/IP

Giao thức TCP/IP là 1 giao thức được sử dụng để truyền dữ liệu giữa 2 máy tính. Theo giao thức này, mỗi máy tính sẽ có 1 địa chỉ xác định trên mạng gọi là địa chỉ IP. Địa chỉ IP là một cụm chữ số có dạng a.b.c.d (a,b,c,d là các số từ 0 đến 255). VD: 174.178.0.1.

Giao thức TCP/IP chỉ có nhiệm vụ duy nhất là truyền dữ liệu giữa 2 máy tính và đảm bảo giữ nguyên vẹn dữ liệu khi truyền đi. Ngoài ra nó chẳng cần biết dữ liệu đó là gì và được xử lý như thế nào.

Dựa trên khả năng vận chuyển của giao thức TCP/IP, người ta xây dựng nên một nhóm các giao thức khác chuyên xử lý dữ liệu nhận được từ TCP/IP, gọi là chùm giao thức TCP/IP hay họ giao thức TCP/IP.

Để phân chia các giao thức con trong chùm giao thức TCP/IP, người ta sử dụng một khái niệm khác gọi là Cổng giao thức. Đây là 1 con số nguyên từ 0 đến 32767 thì phải :p. Mỗi giao thức con trong chùm giao thức sẽ chiếm hữu một cổng riêng. Thông thường thì mỗi chương trình ứng dụng trên server sẽ chịu trách nhiệm mở một cổng TCP/IP, định nghĩa giao thức cho cổng đó, và sau đó là lắng nghe các yêu cầu từ máy khách và xử lý các yêu cầu đó.

Như vậy, trong hệ giao thức TCP/IP, một máy khách sẽ truy cập thành công đến máy chủ nếu như nó có địa chỉ IP và cổng đang mở của dịch vụ trên máy chủ.

Chẳng hạn: Với 1 máy chủ quản lý web (web server), chúng ta cần phải có một ứng dụng web gọi là web server. Ứng dụng này sẽ mở 1 cổng (mặc định là 80) và xử lý các tín hiệu đến từ cổng đó.

II. Trang Web tĩnh và Trang Web động
1. Trang web tĩnh và trang web động

Bạn đã từng xây dựng một trang Web và đưa nó lên mạng? Trang web của bạn thật là thú vị (ít nhất là theo ý nghĩ của bạn Cheesy) và tất nhiên bạn muốn tham khảo ý kiến của người đọc? Chẳng nhẽ bạn lại cho số điện thoại và yêu cầu người góp ý phải gọi điện đến? Hic… Đảm bảo sẽ chẳng có ma nào thèm gọi điện.
Bạn muốn "xin" một ít thông tin về người duyệt Web… hic. Làm cách nào bây giờ???
Vâng, đó chính là nhược điểm của cái gọi là trang web tĩnh. Đó là các trang Web không cho phép bạn có thể tương tác với người dùng (chẳng hạn như là trao đổi hay thu thập các thông tin từ phía người dùng). Nó là các trang web có đuôi *.htm thông thường. Ngược lại, các trang Web động cho phép bạn nhận thông tin từ người dùng, xử lý thông tin đó, và có thể đáp trả lại các yêu cầu của họ. Xem ra nó cũng linh động ra phết đấy chứ?

2. Lập trình Script

Các trang web nguyên thuỷ sử dụng ngôn ngữ định dạng chuẩn là HTML (HyperText Markup Language). HTML chuẩn chỉ bao gồm các cặp thẻ đánh dấu để định khuôn dạng của tài liệu. Tuỳ theo tên thẻ là gì mà trình duyệt sẽ tự động hiểu và làm các công việc do thẻ đó quy định. Chẳng hạn như cặp thẻ …. quy định đoạn văn bản trong đó sử dụng chữ đậm. Vì vậy, trên thực tế người ta không coi nó là một ngôn ngữ (vì nó chẳng liên quan gì đến những thứ mà ta hay gặp trong lập trình như biến, câu lệnh rẽ nhánh, lặp…). Cũng chính vì nguyên nhân này, nó phải tự mở rộng bằng cách cho phép "nhúng" vào bản thân nó một số đoạn mã lệnh chương trình đặc biệt, người ta thường gọi chúng là các đoạn mã Script hay các đoạn mã nhúng . Ngôn ngữ sử dụng trong các đoạn mã lệnh đó gọi là các ngôn ngữ Script. Các ngôn ngữ script thường đơn giản và không có nhiều sức mạnh như các ngôn ngữ "kinh điển" cùng tên, hay nói cách khác, chúng là một phần rất nhỏ của một ngôn ngữ nào đó được tích hợp vào trình duyệt để thực hiện một số thao tác nhất định.
Chi tiết về ngôn ngữ HTML đã có đầy rẫy trên Internet, cũng như ở các hiệu sách, nên chúng không được nhắc lại ở đây. Nếu các bạn chưa biết gì về nó thì bạn phải tìm đọc các tài liệu về HTML trước khi tiếp tục theo dõi khoá học này.

Lập trình Script ở máy khách

Như tên gọi của nó, lập trình script ở máy khách là viết các đoạn script chạy trên máy khách. Các đoạn mã này được máy chủ gửi kèm trong tài liệu, đưa về máy khách và được thực hiện ở đây.
Trong tài liệu gửi về trình duyệt, các đoạn mã này thường được tìm thấy trong cặp thẻ
.
Có nhiều ngôn ngữ script phía máy khách. Nổi tiếng hơn cả là Javascript. Kế đến là VbScript và PerlScript.
Vì tài liệu này chủ yếu tập trung vào PHP - một ngôn ngữ script chạy trên máy chủ, nên chi tiết những ngôn ngữ này không được nhắc đến trong tài liệu. Riêng về JavaScript, các bạn có thể tìm thấy các tài liệu tiếng Việt qua trang tìm kiếm Vinaseek.com. Nếu có thời gian, tôi khuyên các bạn nên tìm hiểu về chúng. Rất nhiều xảo thuật bắt mắt có thể tìm thấy trong các đoạn mã này.

Click vào đây để tham khảo một tài liệu về JavaScript

Lập trình Script ở máy chủ

Trái ngược với lập trình Script ở máy khách (thực thi mã lệnh ở máy khách), lập trình script ở máy chủ cho phép thực thi các đoạn mã ngay ở trên máy chủ. Không như các đoạn mã script hoạt động ở máy khách, các tài liệu có chứa các đoạn mã script phía máy chủ thường được lưu ở các file tài liệu có đuôi mở rộng riêng biệt, và các đoạn mã thi hành trên máy chủ cũng phải được đặt trong một cặp thẻ đặc biệt tuỳ theo quy định của chương trình xử lý. Chú ý rằng đối với mỗi loại ngôn ngữ server script sẽ có một chương trình xử lý riêng. Chẳng hạn các đoạn mã ASP thường được đặt trong các file *.asp, và chúng được xử lý bằng file ASP.dll.
Chi tiết về cách thức hoạt động của loại này, có thể tóm tắt như sau:
- Bước 1: Client gửi yêu cầu đến máy chủ
- Bước 2: Web server kiểm tra xem yêu cầu đó cần loại tài liệu nào. Nếu đó là loại tài liệu có chứa các đoạn mã server script, nó sẽ triệu gọi chương trình xử lý tương ứng với loại tài liệu đó
- Bước 3: Chương trình xử lý sẽ thực thi các đoạn mã server script trong tài liệu đó, và trả kết quả (thường là dưới khuôn dạng HTML) về cho web server.
- Bước 4: Web server trả kết quả tìm được cho Client và ngắt kết nối.
More about

Khám phá : Chim sẻ có thể chọn giới tính cho con

Người đăng: buonkhongem

[FD's BlOg] - Sau khi sẻ mái giao phối với một anh chàng không như ý, phần lớn trứng trong tổ của chúng sẽ nở thành chim đực.





Một đàn sẻ cầu vồng tại Australia. Ảnh: angelo.edu.


Ở phần lớn loài chim trên hành tinh, giới tính của một quả trứng được quyết định trước khi chim trống thụ tinh. Nhưng Sarah Pryke, một nhà sinh vật học của Đại học Macquarie (Australia), khẳng định những con mái của loài sẻ cầu vồng (Chloebia gouldiae) có thể thay đổi giới tính của chim non. Bà nhận thấy khi chim mái giao phối với con đực không phù hợp, 70% trứng sẽ nở thành con đực.

Sẻ cầu vồng sinh sống ở các khu vực gần nguồn nước, bìa rừng ở miền bắc và miền trung Australia. Người ta gọi chúng là sẻ cầu vồng vì bộ lông của chúng có nhiều màu sắc. Tất cả sẻ cầu vồng đều có lông màu tím ở ngực nên chúng còn được gọi là sẻ ngực tím. Chiều dài thân của sẻ trưởng thành vào khoảng 12-14 cm.

Lông trên đầu sẻ cầu vồng có màu đen, đỏ và vàng, trong đó sẻ đầu đen chiếm khoảng 75%. Chim mái có thể nhận ra con trống phù hợp về gene bằng cách nhìn vào đầu. Nếu màu sắc trên đầu con trống trùng với màu trên đầu con mái thì chúng là cặp đôi phù hợp. Việc giao phối với chim trống có cùng màu sắc trên đầu giúp chim mái đẻ ra những đứa con khỏe mạnh hơn. Trong trường hợp đó, số lượng con đực và con cái trong ổ trứng sẽ bằng nhau.

“Sẻ mái không muốn giao phối với con đực có màu lông trên đầu khác với chúng. Nhưng nhiều con không thể tìm được những con trống có cùng màu lông trên đầu. Vì thế mà khi đẻ trứng chúng phải sử dụng biện pháp tăng số lượng con đực để giảm thiểu rủi ro cho chim non”, Pryke nói.

Sẻ đầu đen chiếm 75% tổng số sẻ cầu vồng, trong khi cứ vài nghìn con mới có một con sở hữu chiếc đầu màu vàng. Ảnh: angelo.edu.


Để chứng minh rằng chim sẻ mái có thể kiểm soát giới tính của chim non, tiến sĩ Pryke và cộng sự thử đánh lừa chim mái. Họ chọn vài con trống đầu đỏ rồi bôi đen lông trên đầu của chúng. Sau đó nhóm nghiên cứu nhốt chúng vào lồng có chim mái đầu đỏ và đầu đen.

“Sẻ mái không nhận ra màu lông đầu thực sự của chim trống. Chúng hoàn toàn bị đánh lừa”, Pryke nói. Kết quả cho thấy khi chim mái đầu đen giao phối với chim trống đầu đen giả mạo, tỷ lệ đực và cái trong ổ trứng bằng nhau. Còn ở tổ chim mái đầu đỏ, số lượng chim đực non chiếm tới 70% dù nó được giao phối với con trống có cùng màu lông đầu.

“Đây là bằng chứng rõ ràng và đáng thuyết phục nhất về hiện tượng thiên vị giới tính ở chim”, Pryke khẳng định. Tuy nhiên, cách thức chim kiểm soát giới tính của trứng vẫn là điều bí ẩn. “Chúng tôi nghĩ rằng các hoóc môn có thể đóng một vai trò nào đó, nhưng giả thuyết này cần được kiểm chứng”, Pryke nói.
More about

Kiến thức quanh ta : Những câu hỏi tại sao???

Người đăng: buonkhongem on Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2009

WHY ???

[FD's BlOg] - Tổng hợp những kiến thức trong cuộc sống quanh ta.





1. Tại sao vết thương sắp lành thì thấy ngứa?

Hiện tượng này rất hay gặp, nhưng cần phải biết rằng nó chỉ đúng với những vết thương lớn và sâu, còn những vết thương nhỏ sắp khỏi thì không có cảm giác đó.

Vì vết thương của biểu bì dựa vào sinh phát tầng của da mới khỏi được, nó không chạm đến thần kinh, không thể có bất kỳ cảm giác ngứa ngáy nào hết và cũng không có sẹo. Nhưng vết thương sâu vào trong da thì tình hình lại khác, vì nó đã tổn thương đến bắp thịt và thần kinh. Muốn chữa khỏi vết thương này, cần phải mọc thêm lớp kết đế mới, vết sẹo sau đó cũng như vậy. Huyết quản của tổ chức kết đế mới mọc rất sát nhau, thần kinh mới cũng nằm ở trong đó, rất dễ bị kích thích, phát sinh cảm giác ngứa là lẽ tự nhiên.

Bonus:
Câu hỏi đặt ra là: khi xước nông thì khi lành có gây ngứa nữa ko. Nếu dị vật còn ở trong đó thì tình hình sẽ thế nào?

Nếu vi khuẩn xâm nhập vào đó với số lượng đủ lớn sẽ xảy ra hiện tượng gì?
Giải thích vì sao khi bị thương thì phải băng vết thương lại.

2. Tại sao vẩy cá phát sáng?
(thomas.voirol)

Trong lớp da thật và trên dưới những cái vẩy có phân bố rất nhiều tế bào sắc tố và tế bào ánh sáng. Nhưng nếu chỉ có tế bào sắc tố thôi thì không thể làm con cá hiện ra với màu sắc sán lạn như vậy được.

Trong lớp da của cá, còn có một loại tế bào ánh sáng, trong các tế bào này có bao hàm chất phân chim, chất phân rùa là những tinh thể không màu hoặc màu trắng, chúng tích tụ ở trong tế bào. Khi ánh sáng chiếu đến thân con cá, thông qua sự phản xạ và can thiệp của những tinh thể trong tế bào, ánh hiện lên trước mắt chúng ta liền trở thành ánh sáng lấp lánh như bạc. Cho nên vẩy cá sáng lấp lánh, chủ yếu nhờ tác dụng của các tế bào ánh sáng.

3. Râu mèo để làm gì?

Ban đêm, mèo bận rộn trèo lên, nhảy xuống, rượt về phía Đông, lao về phía Tây, khẩn trương nhanh nhẹn vô cùng. Nhưng nếu bạn cắt trụi râu của nó, mèo sẽ trở nên đần thộn hẳn.

Bạn đã có kinh nghiệm như thế này: Có một con nhặng đậu trên lông mày bạn, và bạn lập tức xua nó đi. Việc này là thế nào?

Thì ra những cái lông mày vừa nhỏ vừa mềm này lại là từng cái trụ đòn bẩy nhỏ, khi nhặng rơi lên đó, làm những cái đòn bẩy động đậy, phần gốc đòn chuyển với tốc độ nhanh như chớp qua nhiều lớp lưới thần kinh phức tạp, báo lên "bộ tư lệnh" - trung khu thần kinh, và tay bèn xua nhặng đi.

Tác dụng của râu mèo có điểm giống như lông mày của người. Trong đêm, trời tối đen như mực, trước khi mèo muốn chạy qua vách hang, nếu râu chạm được vào sát cửa hang thì nó được mách bảo rằng cửa hang nhỏ, rằng trong hang hẹp không có cách nào chạy nhanh hoặc rất khó qua; nếu râu không chạm đến mép cửa hang thì nó hiểu là cái hang này to, lòng hang rộng. Khoảng cách giữa hai ngọn râu mèo bằng vành rộng của thân nó. Râu mèo trở thành hai "compa" sống.

Bonus:
Câu hỏi đặt ra là: có phải râu chó, râu chuột chũi, râu của các con vật khác mà hay chui rúc cũng như vậy ko?

4. Tại sao nên xếp hồng với lê khi giấm?

Quả chín thoát ra nhiều khí ethylene.
Kinh nghiệm dân gian cho thấy, khi ngắt những trái hồng xanh về giấm thường rất lâu chín. Nhưng nếu người ta để vào mấy quả lê hay vài quả hồng chín thì những quả xanh cũng mau chín hơn hẳn.

Trong mỗi quả xanh đều có một loại axit gây chua, chát. Ví dụ trong hồng có axit tanin, táo có axit malic, quýt, chanh có axit xitric... Khi quả chín, các axit này bị phân hủy dần và vị chua, chát sẽ mất đi. Màu quả cũng chuyển từ xanh qua vàng.

Bình thường, chỉ cần chờ đợi thì quả xanh nào rồi cũng chín, nhưng không phải ai cũng kiên nhẫn được như vậy. Mặc khác, đến vụ người ta muốn thu hoạch một lần nhiều quả chín. Vì thế cần có cách làm chúng chín nhanh hơn, đó là nghệ thuật giấm hoa quả. Trước thế kỷ 20, người ta không hiểu vì sao khi đưa một vài quả chín vào đám quả xanh thì quá trình chín diễn ra nhanh hơn.

Mọi bí mật được hé mở khi nhà hóa học Svet tìm ra phương pháp sắc ký - tức là phương pháp xác định thành phần các chất khí. Đo đạc cho thấy quả chín thường thoát ra khí ethylene. Một số quả như lê, táo chín nhanh hơn các quả hồng, mận. Chúng cũng giải phóng nhiều ethylene hơn. Loại khí này có cấu trúc phân tử gồm một nguyên tử carbon và 4 nguyên tử hydro. Nó có tính hoạt động hóa học tương đối mạnh, xúc tiến hoạt động hô hấp của cây, khiến ôxy dễ lọt qua lớp vỏ vào quả hơn, và quả cũng chín nhanh hơn. Chính vì vậy, khi xếp mấy quả lê hoặc vài quả hồng chín vào một rổ hồng xanh thì có thể tiết kiệm được thời gian giấm.

Bonus:
Câu hỏi đặt ra là: Bạn biết quả nào để với quả nào thì nó lâu chín ko? Giải thích.

6. Bao nhieu % năng lượng được cơ thể sử dung khi tiêu thụ một đơn vị thức ăn?

Đây là một câu hỏi hay và khó trả lời.

Protein có thể làm gia tăng chỉ số trao đổi chất tới mức 30% trong khi cacbohdrat chỉ làm tăng chỉ số này trong khoảng 5-6%.

Nói chung,hiệu suất trao đổi chất của quá trình biến đổi năng lượng thức ăn sang dang năng lượng mà cơ thể xài được tối đa là 40%.
Theo madsci.
More about

Những thuật ngữ viết tắt trong tin học

Người đăng: buonkhongem on Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2009

PC, NTFS, AGP, USB,....v..v chúng có ý nghĩa gì?

[FD's BlOg] - Bạn có thể rất am hiểu về tin học, bạn có thể rành về máy tính, nhưng bạn có biết những thuật ngữ viết tắt trong tin học như PC, NTFS, AGP, USB,....v..v chúng có ý nghĩa gì? .



Dưới đây là 1 số thuật ngữ viết tắt mà mình sưu tầm được.

  • IT (Information Technology): Công nghệ về máy tính.
  • PC (Personal Computer): Máy tính cá nhân.
  • ICT (Information Communication Technology): Ngành công nghệ thông tin - truyền thông.
  • PDA (Personal Digital Assistant): Thiết bị số hổ trợ cá nhân.
  • CP (Computer Programmer): Người lập trình máy tính.
  • CPU (Central Processing Unit): Đơn vị xữ lý trung tâm trong máy tính.
  • BIOS (Basic Input/Output System): Hệ thống nhập/xuất cơ sở.
  • CMOS (Complementary Metal Oxide Semiconductor): Bán dẫn bù Oxít - Kim loại, Họ các vi mạch điện tử thường được sử dụng rộng rải trong việc thiết lập các mạch điện tử.
  • I/O (Input/Output): Cổng nhập/xuất.
  • COM (Computer Output on Micro):
  • CMD (Command): Dòng lệnh để thực hiện một chương trình nào đó..
  • OS (Operating System): Hệ điều hành máy tính.
  • OS Support (Operating System Support): Hệ điều hành được hổ trợ.
  • BPS (Bits Per Second): Số bít truyền trên mỗi giây.
  • RPM (Revolutions Per Minute): Số vòng quay trên mỗi phút.
  • ROM (Read Only Memory): Bộ nhớ chỉ đọc, không thể ghi - xóa.
  • RAM (Random Access Memory): Bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên.
  • SIMM (Single Inline Memory Module).
  • DIMM (Double Inline Memory Modules).
  • RIMM (Ram bus Inline Memory Module).
  • SDRAM (Synchronous Dynamic Random Access Memory): RAM đồng bộ.
  • SDR - SDRAM (Single Data Rate SDRAM).
  • DDR - SDRAM (Double Data Rate SDRAM).
  • HDD (Hard Disk Drive): Ổ Đĩa cứng - là phương tiện lưu trữ chính.
  • FDD (Floppy Disk Drive): Ổ Đĩa mềm - thông thường 1.44 MB.
  • CD - ROM (Compact Disc - Read Only Memory): Đĩa nén chỉ đọc.
  • Modem (Modulator/Demodulator): Điều chế và giải điều chế - chuyển đổi qua lại giữa tín hiệu Digital và Analog.
  • DAC (Digital to Analog Converted): Bộ chuyển đổi từ tín hiệu số sang tín hiệu Analog.
  • MS - DOS (Microsoft Disk Operating System): Hệ điều hành đơn nhiệm đầu tiên của Microsoft (1981), chỉ chạy được một ứng dụng tại một thời điểm thông qua dòng lệnh.
  • NTFS (New Technology File System): Hệ thống tập tin theo công nghệ mới - công nghệ bảo mật hơn dựa trên nền tảng là Windows NT.
  • FAT (File Allocation Table): Một bảng hệ thống trên đĩa để cấp phát File.
  • SAM (Security Account Manager): Nơi quản lý và bảo mật các thông tin của tài khoản người dùng.
  • AGP (Accelerated Graphics Port): Cổng tăng tốc đồ họa.
  • VGA (Video Graphics Array): Thiết bị xuất các chương trình đồ họa theo dãy dưới dạng Video ra màn hình.
  • IDE (Integrated Drive Electronics): Mạch điện tử tích hợp trên ổ đĩa cứng, truyền tải theo tín hiệu theo dạng song song (Parallel ATA), là một cổng giao tiếp.
  • PCI (Peripheral Component Interconnect): Các thành phần cấu hình nên cổng giao tiếp ngoại vi theo chuẩn nối tiếp.
  • ISA (Industry Standard Architecture): Là một cổng giao tiếp.
  • USB (Universal Serial Bus): Chuẩn truyền dữ liệu cho BUS (Thiết bị) ngoại vi.
  • SCSI (Small Computer System Interface): Giao diện hệ thống máy tính nhỏ - giao tiếp xữ lý nhiều nhu cầu dữ liệu cùng một lúc.
  • ATA (Advanced Technology Attachment): Chuẩn truyền dữ liệu cho các thiết bị lưu trữ.
  • SATA (Serial Advanced Technology Attachment): Chuẩn truyền dữ liệu theo dạng nối tiếp.
  • PATA (Parallel ATA): Chuẩn truyền dữ liệu theo dạng song song.
  • FSB (Front Side Bus): BUS truyền dữ liệu hệ thống - kết nối giữa CPU với bộ nhớ chính.
  • HT (Hyper Threading): Công nghệ siêu phân luồng.
  • S/P (Supports): Sự hổ trợ.
  • PNP (Plug And Play): Cắm và chạy.
  • EM64T (Extended Memory 64 bit Technology): CPU hổ trợ công nghệ 64 bit.
  • IEEE (Institute of Electrical and Electronics Engineers): Học Viện của các Kỹ Sư Điện và Điện Tử.
  • OSI (Open System Interconnection): Mô hình liên kết hệ thống mở - chuẩn hóa quốc tế.
  • ASCII (American Standard Code for Information Interchange): Hệ lập mã, trong đó các số được qui định cho các chữ.
  • APM (Advanced Power Manager): Quản lý nguồn cao cấp (tốt) hơn.
  • ACPI (Advanced Configuration and Power Interface): Cấu hình cao cấp và giao diện nguồn.
  • MBR (Master Boot Record): Bảng ghi chính trong các đĩa dùng khởi động hệ thống.
  • RAID (Redundant Array of Independent Disks): Hệ thống quản l‎ý nhiều ổ đĩa cùng một lúc.
  • Wi - Fi (Wireless Fidelity): Kỹ thuật mạng không dây.
  • LAN (Local Area Network): Mạng máy tính cục bộ.
  • WAN (Wide Area Network): Mạng máy tính diện rộng.
  • NIC (Network Interface Card): Card giao tiếp mạng.
  • UTP (Unshielded Twisted Pair): Cáp xoắn đôi - dùng để kết nối mạng thông qua đầu nối RJ45.
  • STP (Shielded Twisted Pair): Cáp xoắn đôi có vỏ bọc.
  • BNC (British Naval Connector): Đầu nối BNC dùng để nối cáp đồng trục.
  • ADSL (Asymmetric Digital Subscriber Line): Đường thuê bao bất đối xứng - kết nối băng thông rộng.
  • TCP/IP (Transmission Control Protocol/Internet Protocol): Giao thức mạng.
  • IP (Internet Protocol): Giao thức giao tiếp mạng Internet.
  • DHCP (Dynamic Host Configuration Protocol): Hệ thống giao thức cấu hình IP động.
  • DNS (Domain Name System): Hệ thống phân giải tên miền thành IP và ngược lại.
  • RIS (Remote Installation Service): Dịch vụ cài đặt từ xa thông qua LAN.
  • ARP (Address Resolution Protocol): Giao thức chuyển đổi từ địa chỉ Logic sang địa chỉ vật lý.
  • ICS (Internet Connection Sharing): Chia sẽ kết nối Internet.
  • MAC (Media Access Control): Khả năng kết nối ở tầng vật lý.
  • CSMA/CD (Carrier Sense Multiple Access with Collision Detection): Giao thức truyền tin trên mạng theo phương thức lắng nghe đường truyền mạng để tránh sự đụng độ.
  • AD (Active Directory): Hệ thống thư mục tích cực, có thể mở rộng và tự điều chỉnh giúp cho người quản trị có thể quản lý tài nguyên trên mạng một cách dễ dàng.
  • DC (Domain Controller): Hệ thống tên miền.
  • OU (Organization Unit): Đơn vị tổ chức trong AD.
  • DFS (Distributed File System): Hệ thống quản lý tập tin luận lý, quản lý các Share trong DC.
  • HTML (Hyper Text Markup Language): Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản
  • Other
  • ISP (Internet Service Provider): Nhà cung cấp dịch vụ Internet.
  • ICP (Internet Content Provider): Nhà cung cấp nội dung thông tin trên Internet.
  • IAP (Internet Access Provider): Nhà cung cấp cỗng kết nối Internet.
  • WWW (World Wide Web): Hệ thống Web diện rộng toàn cầu.
  • HTTP (Hyper Text Transfer Protocol): Giao thức truyền tải File dưới dạng siêu văn bản.
  • URL (Uniform Resource Locator): Dùng để định nghĩa một Website, là đích của một liên kết.
  • FTP (File Transfer Protocol): Giao thức truyền tải File.
  • E_Mail (Electronic Mail): Hệ thống thư điện tử.
  • E_Card (Electronic Card): Hệ thống thiệp điện tử.
  • ID (Identity): Cở sở để nhận dạng.
  • SMS (Short Message Service): Hệ thống tin nhắn ngắn - nhắn dưới dạng ký tự qua mạng điện thoại.
  • MSN (Microsoft Network): Dịch vụ nhắn tin qua mạng của Microsoft.
  • MSDN (Microsoft Developer Network): Nhóm phát triển về công nghệ mạng của Microsoft.
  • Acc User (Account User): Tài khoản người dùng.
  • POP (Post Office Protocol): Giao thức văn phòng, dùng để nhận Mail từ Mail Server.
  • SMTP (Simple Mail Transfer Protocol): Giao thức dùng để gửi Mail từ Mail Client đến Mail Server.
  • CC (Carbon Copy): Đồng kính gửi, người nhận sẽ nhìn thấy tất cả các địa chỉ của những người nhận khác (Trong E_Mail).
  • BCC (Blind Carbon Copy): Đồng kính gửi, nhưng người nhận sẽ không nhìn thấy địa chỉ của những người nhận khác.
  • ISA Server (Internet Security & Acceleration Server): Chương trình hổ trợ quản lý và tăng tốc kết nối Internet dành cho Server.
  • ASP/ASP.NET (Active Server Page): Ngôn ngữ viết Web Server.
  • SQL (Structured Query Language): Ngôn ngữ truy vấn cấu trúc - kết nối đến CSDL.
  • IE (Internet Explorer): Trình duyệt Web “Internet Explorer” của Microsoft.
  • MF (Mozilla Firefox): Trình duyệt Web “Mozilla Firefox”.
  • CAD (Computer Aided Design): Thiết kế với sự trợ giúp của máy tính.
  • CAM (Computer Aided Manufacturing): Sản xuất với sự trợ giúp của máy tính.
  • CAL (Computer Aided Learning): Học tập với sự trợ giúp của máy tính.
  • DPI (Dots Per Inch): Số chấm trong một Inch, đơn vị đo ảnh được sinh ra trên màn hình và máy in.
  • CCNA (Cisco Certified Network Associate): Là chức chỉ mạng quốc tế do hãng sản xuất thiết bị mạng hàng đầu thế giới - Cisco – cấp, và được công nhận trên toàn thế giới.
  • CCNP (Cisco Certified Network Professional): Là chứng chỉ mạng cao cấp của Cisco.
  • MCP (Microsoft Certified Professional): Là chứng chỉ ở cấp độ đầu tiên của Microsoft.
  • MCSA (Microsoft Certified Systems Administrator): Chứng chỉ dành cho người quản trị hệ điều hành mạng của Microsoft, được chính Bác Bill Gate ký.
  • MCSE (Microsoft Certified Systems Engineer): Tạm dịch là kỹ sư mạng được Microsoft chứng nhận, do chính tay Bác Bill Gate ký
  • More about

    Hiểu rõ hơn về thứ 6 ngày 13

    Người đăng: buonkhongem

    Thứ 6 ngày 13 - có gì đáng sợ?

    [FD's BlOg] - Hôm nay, một số người bỗng ở lỳ trong nhà không ló mặt ra đường. Nhiều người vội vàng huỷ mọi chuyến bay, từ chối giao dịch hoặc không ký hợp đồng. Vì sao vậy? Hôm nay là thứ 6 ngày 13 và người ta đang hoảng sợ.


    "Ước tính khoảng 800-900 triệu USD bị thua lỗ trong ngày này bởi người ta sẽ không bay hoặc làm những công việc mà bình thường họ vẫn làm", Donald Dossey, nhà sáng lập Trung tâm điều trị stress và Viện nghiên cứu nỗi ám ảnh ở Asheville, North Carolina, Mỹ, cho biết.

    Nỗi sợ thứ sáu ngày 13 ám ảnh từ 17 đến 21 triệu người ở Mỹ. Các triệu chứng bao gồm từ lo lắng tới hốt hoảng. Hậu quả còn khiến người ta đảo lộn mọi lịch trình hoặc từ bỏ hẳn một ngày làm việc.

    Richard Wiseman, nhà tâm lý học tại Đại học Hertfordshire ở Hatfield, Anh, nhận thấy những người luôn coi mình đen đủi thì dễ tin vào những điều mê tín về may rủi. Wiseman tìm thấy 1/4 trong số hơn 2.000 người được phỏng vấn vào năm ngoái luôn cho rằng con số 13 mang lại rủi ro. Họ luôn bồn chồn, lo lắng vào những thứ sáu ngày 13, và vì vậy dễ gặp tai nạn hơn. Nói theo cách khác, nỗi lo thứ 6 ngày 13 chính là nguyên nhân làm hỏng việc của họ.

    Vì sao thứ 6 ngày 13 lại trở thành ngày đen đủi như vậy?

    Dossey, tác giả cuốn Holiday Folklore, Phobias and Fun, cho biết nỗi sợ bắt nguồn từ thời cổ đại, khi số 13 và thứ 6 - hai điều mang lại vận đen kết hợp với nhau thì tạo nên một ngày vô cùng bất hạnh.

    Con số 13 là bắt nguồn từ truyền thuyết Nauy về 12 vị thần dự tiệc tại thiên đường Valhalla. Khi đó một vị khách không mời thứ 13 xuất hiện, thần tinh quái Loki. Tại đó, Loki đã bày đặt cho Hoder, thần bóng tối, bắn thần Balder xinh đẹp, vị thần mang lại niềm vui và hạnh phúc, bằng một mũi tên tẩm độc tầm gửi.

    "Balder chết và cả trái đất chìm trong bóng tối và tang tóc. Đó là một ngày đen đủi, bất hạnh", Dossey nói. Từ đó trở đi, con số 13 trở thành điềm gở và báo trước những điều không lành.

    Trong kinh thánh cũng có nhắc tới con số 13 không may mắn. Judas, phản đồ của Jesus là vị khách thứ 13 trong bữa tiệc cuối cùng. Trong khi đó ở thành Rome cổ, các vị phù thuỷ thường tập hợp thành những nhóm 12. Nhân vật thứ 13 là quỷ dữ.

    Thomas Fernsler, nhà khoa học tại Trung tâm khoa học và toán học tại Đại học Delaware ở Newark, thì cho rằng con số 13 xấu vì nó nằm sau số 12. Theo Fernsler, các nhà số học coi số 12 là số hoàn chỉnh. Một năm có 12 tháng, có 12 cung hoàng đạo, 12 vị thần Hy Lạp, 12 tông đồ của Jesus, Hercules lập 12 chiến công. 13 trở thành điều không may mắn bởi nó vượt quá sự hoàn thiện.

    Nỗi sợ con số 13 thể hiện rõ trong thế giới hiện đại ngày nay. Hơn 80% các toà nhà cao tầng không có tầng 13. Nhiều sân bay bỏ qua cổng thứ 13. Bệnh viện, khách sạn thường xuyên không có phòng 13. Trên các dãy phố ở Florence, Italy, những ngôi nhà nằm giữa số 12 và 14 được đánh số là 12 rưỡi. Nhiều người mê tín cũng coi số phận bi thảm của con tàu Apollo 13 liên quan tới số 13.

    Còn với thứ 6, đó là ngày chúa Jesus bị hành quyết. Một số học giả cũng cho rằng Eve cùng Adam thử trái cấm vào thứ 6. Còn trường hợp nổi bật nhất là Abel bị Cain giết vào thứ 6 ngày 13.

    Dossey cho rằng cách phòng tránh tốt nhất chỉ đơn giản là hướng những suy nghĩ tiêu cực sang tích cực. Tập trung suy nghĩ về những điều tốt đẹp sẽ tạo ra cảm giác thoải mái và làm giảm bớt căng thẳng.

    Wiseman, nhà tâm lý tại Đại học Hertfordshire, cũng khuyên rằng: "Mọi người nên nhận ra rằng họ hoàn toàn có thể tạo ra chính vận may hay vận rủi cho mình. Họ nên nghĩ đến những điều may mắn như những sự kiện vui vẻ trong cuộc sống, nhớ lại những điều tốt đẹp đã xảy ra và chuẩn bị sẵn sàng để kiểm soát tương lai".

    Một số quan niệm dân gian lại gợi ý cách giải xui là trèo lên lên đỉnh ngọn núi hoặc tháp chọc trời rồi đốt tất cả những chiếc tất thủng lỗ. Hoặc cách khác là làm động tác trồng cây chuối và ăn một mẩu xương sụn.

    Nếu bạn lo ngại thứ 6 ngày 13 thì hãy tự chọn cho mình một cách đề phòng, để ngày hôm nay mang đến cho mình thật nhiều may mắn.
    Theo Vnexpress
    More about

    Khám phá : 13 tiết lộ về thứ Sáu ngày 13

    Người đăng: buonkhongem

    13 tiết lộ về thứ Sáu ngày 13


    [FD's BlOg] - Khi nói đến thứ Sáu ngày 13, bạn thường có cảm giác sợ hãi một điều gì đó không may sẽ đến với bạn trong ngày. Bạn vẫn cho rằng thứ Sáu ngày 13 là một ngày không tốt, tuy nhiên, có một số sự thật về thứ Sáu ngày 13 mà bạn có thể vẫn chưa khám phá ra.



    Sau đây là 13 tiết lộ về thứ Sáu ngày 13:


    1. Hải Quân Anh đã tạo một chiếc tàu thuỷ và đặt tên là thứ Sáu ngày 13. Chuyến khởi hành đi xa đầu tiên của nó cũng vào thứ Sáu ngày 13 và sau đó người ta không nghe tin gì về nó.

    2. Con tàu Apollo 13 định mệnh được phóng vào hồi 13h13 CST (giờ chuẩn trung tâm) vào ngày 11 tháng 4 năm 1970. Tổng thông số ngày tháng (4-11-70) là 13 (tức là 4+1+1+7+0 = 13). Và vụ nổ của con tàu định mệnh này cũng liên quan đến số 13, đó là ngày 13 tháng 4 (song, không phải ngày thứ Sáu). Tuy vậy, may mắn đội phi hành gia vẫn trở về trái đất an toàn.

    Thứ Sáu ngày 13 luôn được coi là ngày xấu, mà không thể giải thích vì sao.


    3. Nhiều bệnh viện không có phòng 13 và nhiều toà nhà cao tầng không có tầng 13.

    4. Nỗi sợ hãi thứ Sáu ngày 13, đó là một trong những thần thoại được biết đến nhiều nhất trong khoa học. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là hầu hết những người tin rằng thứ Sáu ngày 13 là ngày đen đủi mà không đưa ra lí do gì, kể cả những lập luận không logic. Giống như một sự mê tín dị đoan, những người sợ thứ Sáu ngày 13 cảm thấy sợ vì đơn giản là họ sợ, không bởi vì một lí do cụ thể nào cả.

    5. Tiền vệ Dan Marino đã mặc áo số 13 trong suốt cuộc đời cầu thủ của mình ở Miami Dolphins. Mặc dù là một tiền vệ tuyệt vời nhưng anh chỉ được chơi bóng 1 lần vào năm 1985 và đội của anh đã bị đội San Francisco thắng đậm 38-16.

    6. Cassidy, một kẻ cướp nhà băng khét tiếng cũng được sinh ra vào thứ Sáu ngày 13 năm 1866.

    7. Cựu Tổng thống Brazil và Fidel Castro sinh vào thứ Sáu ngày 13 tháng 8 năm 1926.

    8. Tổng thống Franklin D. Roosevelt không đi đâu vào ngày 13 của tháng và ông cũng không bao giờ mời 13 vị khách ngồi cùng một bữa ăn. Napoleon và Herbert Hoover cũng đặc biệt sợ hãi con số 13.

    9. Một bữa tối mê tín ở Paris nếu có 13 vị khách thì nhất định sẽ có thêm vị khách danh dự thứ 14 thì bữa ăn đó mới được tiến hành.

    10. Nhà văn Mark Twain cũng có một lần tiếp vị khách thứ 13 vào bữa tối. Một người bạn của ông đã báo trước không đến, nhưng cuối cùng lại đến. Và điều ông thấy không may là ông chỉ chuẩn bị thức ăn và đồ dùng cho 12 người.

    11. Tổng thống thứ 28 của Mỹ, Woodrow Wilson lại xem số 13 là số may mắn của mình. Để khẳng định điều đó, ông có chuyến đến Pháp vào thứ Sáu ngày 13 tháng 12 năm 1918 để có cuộc thương thuyết hoà bình. Nhưng ông lại trở về không thành công.

    12. Số 13 là số đứng sau số 12, con số mà theo những nhà số học cho rằng đó là một con số hoàn hảo vì một năm có 12 tháng, 12 giờ hoàng đạo, 12 vị thần của Olympus, 12 sứ mệnh của Hercules, 12 bộ tộc của Israel, 12 tông đồ của Jesus, 12 ngày của Giáng Sinh và 12 quả trứng được một tá trứng. Chính vì vậy, số 13 sau số 12 hoàn hảo nên nó thành một con số không may?


    13. Dấu ấn ở mặt sau của một tờ đô la có 13 bậc kim tự tháp, 13 ngôi sao trên đầu con đại bàng, 13 lá oliu trên nhánh oliu.
    More about